ART & CULTURE / Culture

Đạo diễn Đặng Nhật Minh: Có một người Hà Nội làm phim như thế

Sep 01, 2025 | By Ho Hai Yen

Tôi nhớ lần đầu xem phim “Mùa ổi” của đạo diễn Đặng Nhật Minh trong một Liên hoan phim Việt Nam, nơi trình chiếu lại những tác phẩm điện ảnh xưa cũ, và chìm đắm hàng giờ trong thế giới hoài niệm vương mùi ổi xanh ngai ngái, trong đầu váng vất hình dáng nụ cười ngờ nghệch của nghệ sĩ Bùi Bài Bình, người thủ vai chính trong bộ phim.

Chân dung đạo diễn Đặng Nhật Minh

Chân dung đạo diễn Đặng Nhật Minh

“Mùa ổi” được thực hiện dựa trên một câu chuyện có thật, từng được đạo diễn Đặng Nhật Minh đưa vào truyện ngắn “Ngôi nhà xưa”, liên quan đến ngôi nhà số 43 Hàng Chuối của bố vợ đạo diễn. Ông Hòa, nhân vật chính trong phim, và cô em gái Thủy, được lấy nguyên mẫu từ người anh vợ của ông – Nguyễn Hoán, và vợ ông, Nguyễn Phương Nghi. Vốn là nhạc công piano, vợ ông đã góp ý cho ông về tính nhạc trong phim, trong khi con gái ông, Đặng Phương Lan, là người đóng góp nội dung cho kịch bản. Một bộ phim gói gọn trong câu chuyện gia đình, nhưng cũng chính là câu chuyện của thời cuộc ở 3 miền đất nước, đã lấy đi nước mắt của rất nhiều người xem.

Cũng kể từ liên hoan phim năm ấy, tôi tìm xem lại gần như tất cả những phim mà vị đạo diễn tài hoa này từng thực hiện, từ phim tài liệu như “Tháng Năm – Những gương mặt” cho đến phim truyện như “Thị xã trong tầm tay”, “Bao giờ cho đến tháng Mười”, “Cô gái trên sông”, “Đừng đốt”, hay “Thương nhớ đồng quê”. Mỗi phim đều là một lát cắt trong đời sống thường nhật, không cao trào, không kịch tính, không có những chi tiết khiến người xem sửng sốt hay bàng hoàng, đau đớn, nhưng đều khắc họa rõ nét từng giai đoạn lịch sử của Việt Nam từ giữa thế kỷ trước đến nay.

Nghệ sĩ Bùi Bài Bình trong phim “Mùi ổi”

Nói về sự nghiệp của vị đạo diễn biểu tượng, Tiến sĩ Phạm Xuân Thạch đánh giá: “NSND Đặng Nhật Minh có thẩm mỹ vượt thời đại. Ông biến phim thành một công cụ để nói và làm xúc động một số lượng người đông nhất có thể về những vấn đề bức thiết đặt ra với xã hội”. Còn ông Jean Mark Theroanne – đồng sáng lập, đồng Giám đốc Liên hoan phim châu Á Versoul (Pháp) – gọi đạo diễn Đặng Nhật Minh là “đạo diễn Việt Nam vĩ đại”, “bậc thầy của điện ảnh Việt Nam”. Ông nhận xét, phim của Đặng Nhật Minh thể hiện cái nhìn rộng lớn về xã hội Việt Nam, trong đó nổi bật hình ảnh người phụ nữ kiên cường, dũng cảm, không ngại hy sinh.

Thế nhưng, cuộc hành trình điện ảnh của đạo diễn lại diễn ra theo cách rất bất ngờ, là “một chuỗi những sự tình cờ” theo như cách ông nói, không có sự chuẩn bị từ trước mà cũng chẳng qua trường lớp nào. Hành trang duy nhất mà ông có trên cuộc hành trình đó chính là khả năng góp nhặt những câu chuyện đời thường qua cái nhìn thấu cảm, tinh tế về thế giới xung quanh, và tái hiện lại chúng bằng ngôn ngữ của riêng mình.

Nghệ sĩ Lê Vân trong phim “Bao giờ cho đến tháng Mười”

Được biết, ông không học hành chính quy về điện ảnh, mà chỉ có khoảng thời gian làm phiên dịch tiếng Nga cho đoàn chuyên gia về dạy tại trường điện ảnh. Ông có thể mô tả lại quá trình học làm phim của mình được không?

Khi mới vào nghề, tôi mong muốn làm phim tài liệu, nhưng không được nhận làm việc ở xưởng phim tài liệu vì thiếu bằng cấp về điện ảnh. Tôi nhảy sang Hãng phim truyện Việt Nam và được chấp nhận với điều kiện làm phó đạo diễn. Sau phim “Bao giờ cho đến tháng 10”, tôi nhận học bổng điện ảnh, được sang Pháp thực tập 9 tháng, rồi tiếp 6 tháng ở Bulgaria. May mắn là tôi biết tiếng Nga và tiếng Pháp nên có thể đọc tài liệu điện ảnh từ hai nền điện ảnh này để tự học. Cách học chủ yếu của tôi là xem phim. Khi xem, tôi học được cách người ta làm phim như thế nào.

Đến bây giờ, tôi cũng không biết mình chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ nền điện ảnh nào. Mỗi nước đều có những đạo diễn tài năng, và những đạo diễn ấy đều là thầy của tôi.

Năm 1973, ông làm đạo diễn cho phim “Những ngôi sao biển” (kịch bản Nguyễn Khắc Phục). Năm 1976, ông đạo diễn phim “Ngày mưa cuối năm” (kịch bản Hồng Phi). Nhưng đến 1983, ông bắt đầu làm phim do chính mình viết kịch bản,Thị xã trong tầm tay”. Bước chuyển tiếp này diễn ra như thế nào, thưa ông?

Sau 12 năm làm phiên dịch, tôi được về hãng phim truyện làm phó đạo diễn, rồi đạo diễn thứ hai và tiếp đến là làm đạo diễn chính. “Những ngôi sao biển” và “Ngày mưa cuối năm” đều là phim tôi được nhận theo phân công, kịch bản đã được duyệt sẵn. Hai bộ phim ra mắt không có nhiều tiếng vang, chỉ được lãnh đạo xưởng phim khen là làm nhanh, giúp xưởng hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch để nhận Cờ Thi đua Luân lưu của Bộ.

Thời điểm đó, tôi không còn sự háo hức ban đầu với điện ảnh nữa. Tôi bắt đầu trăn trở về nghề, khi làm những bộ phim được giao với những kịch bản sẵn có, nếu không phải về đề tài chiến đấu thì cũng là sản xuất công, nông nghiệp. Chúng khô khan, sơ lược, giáo điều… Càng nghĩ, tôi càng cảm thấy không thể tiếp tục như thế này nên từ chối mọi phân công làm phim của giám đốc. Để lấp chỗ trống trong đầu, ban đêm tôi đi học tiếng Pháp, ban ngày ôn luyện. Ba năm liền, hầu như tôi không lui tới xưởng phim.

Phim “Thị xã trong tầm tay”

Sau những gì xảy ra ở khu vực biên giới phía Bắc năm 1979, tôi lên đó và viết một truyện ngắn, được giải ba trên báo Văn nghệ. Cho đến một hôm, tôi tình cờ gặp nhà nghiên cứu Hán Nôm Vũ Hoàng Địch – em trai của nhà thơ Vũ Hoàng Chương, trong một quán nước bên đường Hàn Thuyên, chia sẻ về sự bế tắc và ý định từ bỏ điện ảnh. Ông ấy đã đọc truyện ngắn mà tôi viết, và khuyên tôi nên làm phim theo kịch bản của mình. Thế là tôi thử tự viết kịch bản rồi gửi lên, may mắn được duyệt cho làm.

Chính vì vậy mà tôi chỉ tính là mình làm phim từ bộ phim tự viết kịch bản ấy, “Thị xã trong tầm tay”. Từ đó trở đi, tôi chỉ làm phim do tôi tự tay viết kịch bản. Mỗi khi có cảm xúc hay ý tưởng, tôi thường viết thành truyện ngắn trước. Có nhiều kịch bản gửi duyệt phải chờ 1, 2 năm, nên tốt nhất cứ viết thành truyện ngắn đăng báo trước. Tôi đã có một tập truyện ngắn mang tên “Ngôi nhà xưa” do Nhà xuất bản Trẻ phát hành, trong đó có cả truyện “Mùa ổi”. Khi có điều kiện làm phim, tôi lại chuyển thể những truyện đó thành kịch bản.

“Thị xã trong tầm tay”, ngay khi vừa ra mắt đã đạt được thành công khi được khán giả đón nhận và đoạt giải Bông sen Vàng. Nếu thời điểm đó, bộ phim không nhận được sự ủng hộ và công nhận lớn lao này, ông nghĩ là mình có làm các bộ phim tiếp theo nữa không?

Nói thật là nếu không có thành công đó, có lẽ tôi đã nản lòng. Bộ phim làm về chủ đề chiến tranh biên giới, khá nhạy cảm, nhưng xuất phát từ trải nghiệm cá nhân của tôi. Trước đó, tôi từng định bỏ nghề vì quá mệt mỏi, nhưng nhờ thành công bất ngờ của phim này mà lấy lại được cảm hứng. May mắn là trong hội đồng bình chọn hồi đó có những nhân vật lớn như ông Chế Lan Viên, Nguyễn Khải, Hoàng Trung Thông và Phạm Kỳ Nam đều ủng hộ tôi.

Tôi không dám nhận mình tài giỏi, nhưng quả thật là tôi đã gặp nhiều may mắn. Tôi gặp được những người có tâm, có tầm trong ban phê duyệt. Tôi quan niệm, mình cứ sống hiền lành, làm việc tử tế thì tự khắc gặp điều tốt, như câu “ở hiền gặp lành” vậy.

Phim “Cô gái trên sông”

“Tôi không dám nhận mình tài giỏi, nhưng quả thật là tôi đã gặp nhiều may mắn.” – Đạo diễn Đặng Nhật Minh

Vừa là đạo diễn vừa là tác giả kịch bản, theo ông, sự khác biệt giữa trang giấy và màn ảnh là gì? Và tương tự, đâu là điểm khác biệt giữa một người viết và một đạo diễn?

Thực ra nếu theo con đường văn chương, tôi cũng có thể được gọi là nhà văn. Hồi trẻ, người ta sẽ gọi tôi là nhà văn trẻ, giờ là nhà văn già. Rồi có lẽ cũng đủ tiêu chuẩn để được kết nạp vào Hội nhà văn. Nhưng tôi không chuyên tâm vào văn chương, vì để thành nhà văn thực thụ phải có tiểu thuyết. Tôi thích làm điện ảnh hơn – nó trực quan và đến với công chúng nhanh hơn. Một buổi chiếu phim có 100-200 khán giả đã là thành công, trong khi một truyện ngắn phải mất rất lâu mới có được lượng độc giả như vậy. Tôi luôn tâm niệm: “nhất nghệ tinh”.

Khi viết truyện, nghĩa là mình làm việc với ngôn từ, phải chọn lọc từ ngữ thật chính xác để diễn tả cảm xúc. Còn khi làm phim, mình làm việc với hình ảnh – phải kể toàn bộ câu chuyện bằng hình ảnh. Hai công việc này không mâu thuẫn mà bổ trợ cho nhau. Ví dụ, khi làm việc với diễn viên, tôi vẫn phải dùng từ ngữ thật chính xác để họ hiểu ý đồ. Khi viết truyện ngắn, những hình ảnh đã hiện lên rõ ràng trong đầu, nên khi chuyển thành kịch bản cũng dễ dàng hơn.

Đặc biệt, làm phim còn mang đến một điều tuyệt vời là khả năng hiện thực hóa những suy nghĩ, cảm xúc của bản thân thông qua một tập thể. Từ diễn viên, nhà quay phim đến cả đoàn làm phim – mỗi người góp phần giúp tôi thể hiện ý đồ nghệ thuật. Niềm vui khi làm phim chính là được sống trong không khí sáng tạo chung đó. Giai đoạn hậu kỳ cũng rất thú vị, khi ngồi trong phòng dựng, từng hình ảnh được ghép nối lại với nhau. Mỗi giai đoạn làm phim đều mang lại những niềm vui riêng.

Như vậy, có sự khác biệt rất lớn giữa viết văn và làm phim. Khi viết, mình hoàn toàn kiểm soát được mọi thứ, nhưng làm phim thì phải phụ thuộc vào rất nhiều người. Có khi nào ông thấy thành phẩm cuối cùng khác xa so với hình dung ban đầu không?

Khi viết kịch bản, tôi được hoàn toàn tự do sáng tạo trong thế giới riêng của mình. Nhưng khi bắt tay vào làm phim thì khác hẳn – đó là công việc của cả một tập thể. Dù đạo diễn là người chỉ huy chính, quyết định mọi thứ từ cách bố trí bàn ghế đến diễn xuất của diễn viên, nhưng không phải lúc nào mọi người cũng có thể thực hiện y hệt như trong đầu mình tưởng tượng. Tôi học cách chấp nhận rằng làm phim là nghệ thuật hợp tác. Điều quan trọng nhất là giữ được cái hồn, ý đồ chính của tác phẩm. Còn những chi tiết nhỏ, nếu không thể kiểm soát hoàn toàn cũng không sao. May mắn là những người cùng làm phim với tôi đều rất tâm huyết, luôn cố gắng thực hiện đúng ý đồ của đạo diễn. Những lúc không hoàn toàn hài lòng cũng có, nhưng không nhiều.

Phim “Đừng đốt”

Có kịch bản nào ông từng viết và muốn chuyển thành phim nhưng không được duyệt không?

Tất cả kịch bản của tôi đều xuất phát từ cảm xúc cá nhân, không phải làm theo đơn đặt hàng từ nhà nước. Có kịch bản được thông qua, nhưng cũng có kịch bản bị gạt bỏ, như “Nước mắt khô”. Lý do là gì thì tôi cũng không rõ, nhưng may mắn là vẫn có người ủng hộ, như nhạc sĩ Trần Hoàn khi đó là Bộ trưởng Bộ Văn hóa đã giúp đỡ tôi rất nhiều.

Cơ chế thời đó khác bây giờ. Nhà nước thường làm theo hai kiểu, một là đặt hàng kịch bản cho các dịp lễ lớn, hai là nhận kịch bản tự do. Nếu kịch bản tự do được duyệt thì vẫn được cấp kinh phí để thực hiện. Tôi thuộc diện gửi kịch bản tự do, và may mắn được duyệt. Như phim “Mùa ổi” cũng nhạy cảm, nhưng may mắn gặp được ông Nguyễn Khoa Điềm phê duyệt. Còn “Hà Nội mùa đông 46” thì ban đầu bị từ chối, sau mới được thông qua.

Tôi được biết, một bộ phim khác của ông cũng gặp phải tình trạng lận đận không kém là “Bao giờ cho đến tháng Mười”, với tổng cộng 13 lần kiểm duyệt. Vì sao lại có sự cố ấy, thưa ông?

Nói một cách đơn giản thì việc xét duyệt đi theo nhiều cấp. Cấp dưới duyệt xong thì đưa lên cấp trên xem. Có khi cấp dưới duyệt nhưng cấp trên thì không. Cứ thế mà không ai dám quyết, cuối cùng phải đưa lên tận Tổng Bí thư. Thực ra, ai cũng sợ trách nhiệm. Vấn đề ở đây là vào thời điểm đó, chính quyền đang động viên thanh niên ra trận, mà phim lại nói về nỗi đau hậu phương, sợ sẽ làm ảnh hưởng đến tinh thần tòng quân. Phân cảnh chợ Âm Dương trong phim cũng bị phản ứng, nhưng may có Thứ trưởng Đình Quang bảo: “Chừng nào gia đình Việt Nam còn bàn thờ thì chợ Âm Dương vẫn tồn tại”.

Hình ảnh trong phim “Bao giờ cho đến tháng Mười”

Nhưng có một chuyện vui là trước ngày tân binh nhập ngũ, một cán bộ văn hóa của phường đã được một nhà văn mách lại là mượn bộ phim này về chiếu cho gia đình tân binh sắp nhập ngũ. Khi chiếu xong, anh cán bộ văn hóa lo ngại việc bộ phim nói về một chiến sỹ đã hy sinh ngoài mặt trận sẽ khiến các tân binh e sợ rồi bỏ trốn, nhưng điều không ai ngờ tới chính là buổi tuyển quân hôm đó lại không thiếu một ai. Nhiều gia đình còn nói: “Nhờ xem bộ phim tối qua mà vợ tôi động viên con tôi đi bộ đội”. Thế mới biết, chính bộ phim lại giúp người ta hiểu ý nghĩa của việc ra trận. Đó là câu chuyện nhỏ nhưng vô cùng đáng nhớ.

Bộ phim sau đó đã được đưa vào danh sách 18 phim châu Á hay nhất của đài CNN. Tôi chỉ biết điều này khi báo chí đưa tin. Ngoài ra, phim cũng được một số giải quốc tế như giải đặc biệt tại Hawaii, Mỹ.

Ông sống và làm phim qua những giai đoạn khắc nghiệt nhất của lịch sử đất nước, từ giai đoạn kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ, giành độc lập, thống nhất, thời kỳ bao cấp, đến mở cửa và kinh tế thị trường. Nhưng những bộ phim của ông vẫn rất nhẹ nhàng, bàng bạc một màu sắc hoài niệm. Vì đó là tính cách của ông hay ông cố tình đi ngược với xu hướng làm phim thời bấy giờ là cái gì cũng phải hào hùng, bi tráng?

Trong phim của tôi, không có nhân vật nào là phản diện. Tôi muốn xây dựng những nhân vật như người tử tế bình thường ở ngoài đời. Nhiều người thích kịch tính sẽ tạo ra những nhân vật độc ác xung đột với người tốt, nhưng tôi không làm thế.

Trong một số phim trước, tôi vẫn theo lối xây dựng xung đột, kịch tính truyền thống, nhưng sau khi làm nhiều phim, tôi nhận ra nghệ thuật chân chính phải giống đời sống nhất. Cái gì giống đời sống tự nhiên, không cần tô vẽ, không cần tổ chức cầu kỳ – đó mới là nghệ thuật. Quan niệm cuối đời của tôi là vậy.

Poster phim tài liệu “Tháng Năm, những gương mặt” khi được trình chiếu tại Nhật Bản

“Sau khi làm nhiều phim, tôi nhận ra nghệ thuật chân chính phải giống đời sống nhất.” – Đạo diễn Đặng Nhật Minh

Nếu nói phim nào thể hiện rõ nhất con người tôi, thì đó là phim mới nhất, “Hoa Nhài”, nhưng tiếc là chưa được chiếu vì chưa tìm được nhà phát hành, dù đã hoàn thiện từ năm 2022. “Hoa Nhài” là phim thể hiện rõ nhất quan niệm làm phim của tôi: trầm lắng, không xung đột, không kịch tính, tất cả đều rất đơn giản. Tôi quan niệm nghệ thuật phải giản dị. Phim quay ngoài đường, ngoài phố, không có cao trào, thắt nút mở nút gì cả. Vì tôi nghiệm ra rằng đời sống có mâu thuẫn, nhưng không phải lúc nào cũng đẩy lên thành xung đột rồi giải quyết ngay.

Nhưng làm phim như vậy có thu hút được khán giả không, thưa ông?

Khán giả bây giờ đa dạng lắm – từ 17 tuổi đến 70 tuổi. Nếu theo khán giả trẻ thì phải làm phim hợp gu họ. Nhưng tôi quan niệm trước hết phải làm phim khiến bản thân mình hài lòng đã. Mình không thích thì làm sao người khác thích được? Nếu sau này có người xem thì tôi thấy biết ơn, không có thì cũng đành chịu.

Nói thế chứ, nhiều phim của tôi vẫn được yêu thích, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các thị trường khác như Nhật Bản, Pháp và Mỹ.

Poster phim “Hoa Nhài”

Nhiều khán giả từng tranh cãi xoay quanh việc ông nói rằng mình làm phim không đặt nặng doanh thu, vì nói thế đồng nghĩa với việc ông không cần nhiều người xem phim của mình. Ông phản biện quan điểm này như thế nào?

Đúng là tôi từng phát biểu như vậy, nhưng phải hiểu rằng bối cảnh để tôi nói điều đó rất khác với bây giờ. Vào thời bao cấp, nhà nước là nhà sản xuất và phát hành phim duy nhất. Tôi làm phim như một công chức nhà nước, được trả lương cố định. Dù phim có đông khán giả hay không, tôi cũng không được biết doanh thu, càng không được hưởng lợi gì từ đó. Do đó, không phải tôi không quan tâm khán giả, mà vì cơ chế khiến tôi không cần và cũng không thể quan tâm đến doanh thu.

Hiện tại, bối cảnh đã khác xưa rất nhiều. Nếu làm phim với vốn tư nhân, tôi sẽ phải cân nhắc khán giả và doanh thu, vì nhà đầu tư cần hoàn vốn.

nhà làm phim Việt biểu tượng, ông có yêu thích những bộ phim Việt nào không? Ông có quan tâm đến những bộ phim trăm tỷ ở thị trường hiện tại?

Tôi thích dòng phim tài liệu, và những bộ phim của đạo diễn Trần Văn Thủy rất đáng trân trọng, như “Chuyện tử tế”, “Hà Nội trong mắt ai”. Với phim truyện, tôi đặc biệt ngưỡng mộ các tác phẩm như “Chị Tư Hậu” của đạo diễn Phạm Kỳ Nam, “Đến hẹn lại lên” của đạo diễn Trần Vũ, hay “Cánh đồng hoang” của đạo diễn Hồng Sến. Những đạo diễn này chính là người thầy của tôi, tôi học hỏi được rất nhiều từ họ.

Từ khi về hưu, tôi lười ra rạp hẳn, vì ngại phải xếp hàng hay chờ đợi. Giờ đây, tôi chỉ chờ phim được chiếu trên TV hoặc xem trên máy tính. Những bộ phim trăm tỷ gần đây, tôi cũng có nghe qua, và xem một vài phim trong số đó. Đó là những bộ phim rất tốt! Trước hết là họ biết cách thu hút khán giả trẻ – điều rất đáng quý. Mỗi thể loại phim đều có giá trị riêng: phim nghệ thuật của đạo diễn trẻ mang vinh quang về từ liên hoan phim quốc tế, còn phim thương mại như thì đóng góp vào GDP của nước nhà. Phim nào cũng có lý do tồn tại của nó.

Gần đây nhất là hiện tượng “Địa đạo”. Tôi chưa xem, nhưng đọc thông tin thấy phim được khen nhiều, thấy vui lắm. Điện ảnh nước nhà đang phát triển mạnh.

Đạo diễn Đặng Nhật Minh: “Nghệ thuật luôn cần sự độc đáo”

Theo ông, thị trường điện ảnh Việt hiện tại có tiềm năng để thực hiện những bộ phim sử thi, chiến tranh hay có đề tài lịch sử có sức nặng hay không?

Tôi già rồi, không còn tham vọng làm phim nữa. Về đề tài chiến tranh, tôi đã làm qua như “Hà Nội mùa đông 46”, “Đừng đốt”. Giờ trách nhiệm thuộc về thế hệ sau. Tôi thấy lớp trẻ bây giờ rất tài năng, tiếp cận được xu hướng điện ảnh thế giới rất tốt nên cũng rất hy vọng là họ sẽ làm được.

Khác biệt lớn nhất giữa cách làm phim xưa và nay, theo ông, là gì?

Về bản chất sáng tạo thì không khác – nghệ thuật luôn cần sự độc đáo. Nhưng giới trẻ bây giờ có 2 lợi thế lớn là cách kể chuyện hiện đại, phù hợp với khán giả đương đại. Ngoài ra còn có công nghệ, thiết bị đầy đủ. Ngày xưa, những đoàn làm phim như chúng tôi chỉ có máy quay Liên Xô cũ kỹ, còn bây giờ là đủ loại máy móc tối tân. Tôi đã xem “Bên trong tổ kén vàng” của Phạm Thiên Ân, phim kéo dài 3 tiếng, rất khâm phục đạo diễn vì đã dũng cảm làm một bộ phim như vậy. Gần đây, đọc báo thấy phim “Cu li không bao giờ khóc” của đạo diễn trẻ Phạm Ngọc Lân đoạt giải thưởng lớn ở Liên hoan phim Berlin, tôi cũng thấy rất thích.

Tôi bây giờ không theo kịp cách làm mới nữa, nhưng rất vui khi thấy điện ảnh trẻ phát triển. Tôi thấy mình chỉ đóng góp cho điện ảnh Việt một phần nhỏ bé. Các bạn trẻ hiện tại sẽ đóng góp theo kiểu khác, không nên bắt chước theo kiểu của chúng tôi. Quan trọng là mỗi tác giả phải có một quan điểm của mình về điện ảnh và dám đi đến tận cùng, để tạo nên sự đa dạng trong đời sống điện ảnh.

Xin cảm ơn ông vì những chia sẻ rất ấm áp này!


 
Back to top