The Art Issue (Kỳ 21): NSƯT Thành Lộc
Chúng ta đang được nghe kể về một câu chuyện của một vị phù thuỷ, một quý ngài, một bậc thầy gắn liền với tuổi thơ của mọi thế hệ – Nghệ sĩ Ưu tú Thành Lộc.

2 giờ sáng, bạn đang lướt 1 trang tin không chính thống:
Sân khấu 5B Võ Văn Tần tràn ngập tiếng vỗ tay không ngớt của khán giả sau đêm diễn của vở kịch Lôi Vũ kết thúc, cảm thán bởi số phận bất hạnh của đứa con út gia tộc họ Chu. Bối cảnh chuyển tiếp qua căn nhà ông Tư, sống nơi đất khách quê người, lấy bánh kem của đứa cháu gái làm giỗ vợ, khóc hết nước mắt, đâu đó vang vọng câu hát “Đêm luống trông tin bạn, ngày mỏi mòn như đá vọng phu”. Ông Thiện, dù đã 50 tuổi, vẫn đem lòng yêu cô gái trẻ chỉ mới đôi mươi trong Ngôi nhà không có đàn ông.

Kéo những dòng tin tiếp theo. Bạn chợt nhận ra mình đã bước vào thế giới thần tiên của “chàng cuội ngồi hát, ở tận trời cao tít…”. Con Cám với chiếc áo bà ba tím, áo yếm xanh, hoa hướng dương rực vàng cài hai bên tóc; mụ phù thuỷ ác độc trong chiếc váy ám màu kim loại, quyết tâm hãm hại nàng Bạch Tuyết; Thần Nhẫn nhỏ bé tốt bụng cứu giúp Aladin và mẹ trong hang động tối tăm;… Những năm tháng Ngày xửa ngày xưa kéo dài đến 23 năm. Tháng 6 năm 2025, bản tin dừng lại ở sân khấu kịch Thiên Đăng, trên tầng cao nhất của tòa nhà nhỏ ở quận 1, ngân vang vài câu hát trong vở kịch mới nhất “Ngày mai vẫn đến. Nắng vẫn ươm vàng. Mà người biến mất. Như ρháo hoa tàn.”

Bản tin lần này, nếu muốn, có thể phải kéo dài hàng chục trang giấy. Đã hơn 40 năm, hay nói chính xác hơn, đã 43 năm Thành Lộc đứng trên sân khấu, kể lại những hỉ nộ ái ố, những buồn vui và những cuộc đời thân quen và xa lạ. Có lúc, hay tin mẹ mất ngay trong lúc diễn, cũng có khi chưa kịp thoát vai, tự mình gặm nhấm nỗi buồn trên phố Sài Gòn khuya vắng người. Thành Lộc – tên người nghệ sĩ đã dành hơn nửa đời người cống hiến cho nghệ thuật, điện ảnh và sân khấu.


Có cậu bé nhảy múa dưới ánh đèn
Một cậu nhóc 6 tuổi mặc bộ bà ba satin trắng, đang đứng dưới bóng đèn giao thông chờ từng lượt đèn nhấp sáng, luồng sáng đèn đường trắng ban đêm khiến ánh đèn giao thông trở nên sống động hơn bao giờ hết, ánh sáng ba màu xanh, vàng, đỏ lần lượt đổ xuống đường, ám lên màu áo. Cậu thích nhất màu vàng, trớ trêu thay lại chỉ xuất hiện vỏn vẹn 3 giây, chờ thêm 30 giây nữa, ánh vàng lại tiếp tục hắt xuống áo. Cậu bé vui sướng hết mực, nhảy múa tung tăng, nhuộm mình dưới ánh đèn.



Tiệm nhuộm vải Tô Châu nổi tiếng một thời trên trục đường Nguyễn Đình Chiểu là điểm đến yêu thích của cậu ở tuổi cắp sách đến trường. Những chiếc áo sơ mi cũ đã sẵn sàng thay màu mới, đủ thứ kiểu nhuộm sặc sỡ. Tiệm này nổi tiếng đến độ, khi cậu bước chân vào giảng đường của trường Sân khấu Điện ảnh, đám sinh viên ai ai cũng thi nhau mua vải mùng chỉ, nhuộm xanh nhuộm đỏ, có khi cả ombre. Mấy lớp kịch Cổ đại Hy Lạp, Ai Cập, truyện La Mã, trang phục của nhân vật là nhiều lớp vải màu quấn quanh người. Thời đó là sướng nhất, bởi cậu tự do sáng tạo, được phá phách, bày biện đủ trò.

Thế giới đó trở thành một ngăn kí ức đáng giá, cất gọn vào một góc để trở về với thực tại. NSƯT Thành Lộc sinh ra trong một gia đình truyền thống nghệ thuật, và có lẽ, những ai mang trong mình dòng máu nghệ thuật đều có điểm chung đầu tiên: họ yêu cái đẹp. Mọi lựa chọn nghề nghiệp sau này, dù là thiết kế, kiến trúc hay nhiếp ảnh, chỉ là phương tiện để họ nuôi dưỡng và theo đuổi niềm đam mê đó. “Từ nhỏ, tôi đã say mê màu sắc. Hồi bé, tôi mê kính vạn hoa đến mức tự làm bằng giấy bóng kính đủ màu, cắt nhỏ, ghép vào. Đẹp nhất là lúc xoay kính. Những mảnh giấy nhỏ biến hoá trong ba miếng gương hình tam giác, khép lại thành một khối lập thể. Tôi bị chinh phục bởi những hình thù ấy, chuyển động, đối xứng, vô tận. Như thể cái đẹp có thể nhân lên mãi nếu ta biết nhìn đúng cách.”
“Trong lúc diễn, mấy bạn diễn viên trẻ cứ gọi tôi là ‘thầy’ xưng ‘con’. Nhưng hễ cởi đồ diễn ra là lại gọi tôi ‘anh Lộc’ như cũ.”





Phục trang sân khấu cũng vậy, nó quyết định đến 50% sự thành công của vai diễn. Xưa Thành Lộc thích màu sặc sỡ, hiện tại thiên về pastel hơn cả. Tuy nhiên, với sân khấu, không phải vở nào cũng dùng được bảng màu đó. Có những vở bắt buộc phải dùng màu gốc, thậm chí là màu gắt mới đủ sức nặng. “Tôi từng dựng vở Bí mật vườn Lệ Chi. Phục dựng lại trang phục đúng thời điểm lịch sử ấy không phải điều quá khó, nhưng với tôi, chỉ tái hiện như vậy là chưa đủ, bởi làm nghệ thuật, tôi cần một góc nhìn nghệ thuật. Nếu chỉ muốn phục dựng thì nên làm phim tài liệu.” Bối cảnh là thời kỳ phong kiến, khi trang phục cung đình Việt bị ảnh hưởng đậm nét Trung Hoa, nhưng khán giả Việt cần được biết rằng đây là lịch sử của người Việt. Vì thế, phương án táo bạo được đưa ra, rằng tất cả nhân vật, kể cả vua chúa, đều mặc màu đen, bên trong là lớp áo trắng, áo dài the đen phủ ngoài. Riêng trang phục vua chúa có thêm vài hoạ tiết do nhà thiết kế Sĩ Hoàng vẽ tay đúng với thời kỳ lịch sử. Toàn bộ phông nền được vẽ trên nền vải the đen, viền đỏ. Màu đỏ là máu, màu đen tượng trưng cho những mưu toan. Tóm lại, trên sân khấu chỉ có ba màu: trắng, đen, đỏ. Khi Vua băng hà chỉ còn lại lớp áo trắng bên trong.
Ở một câu chuyện khác, vở Ngàn năm tình sử được chia thành hai phần với hai bảng màu hoàn toàn khác biệt. Phần một là bối cảnh làng gốm – nơi Lý Thường Kiệt lớn lên, toàn bộ thiết kế sân khấu xoay quanh chất liệu gốm và màu men truyền thống. Trang phục nhân vật mang sắc xanh ngọc, sắc men rạn, hòa vào họa tiết trang trí lấy cảm hứng từ hoa văn trên gốm cổ. Không gian lúc này gần gũi, mộc mạc, và mang cảm giác ấm áp của đất nung còn vương nắng. Phần hai diễn ra trong chốn cung đình, cũng là lúc toàn bộ bảng màu chuyển sang màu cát, màu vàng khô như nắng trên nền đất cằn. “Bởi với tôi, khoảnh khắc ông bước vào triều chính là lúc đối diện với những toan tính, mưu mô, và cảm xúc khô cạn của chốn quyền lực.” Cát cũng chính là chất liệu làm ra gốm và đất. Và vì thế, cả hai phần tưởng chừng trái ngược nhưng vẫn có một mạch xuyên suốt. “Tôi rất thích làm sân khấu theo cách đó, nơi mỗi gam màu đều có chủ đích, còn trang phục luôn đi đôi với không gian.”

Thế giới sẽ còn ai?
“Tôi vẫn giữ lại rất nhiều kỷ vật sân khấu, từ những đôi giày, đôi hia từng phải tự đi đóng cho vừa chân, đến những bộ tóc giả, vòng tay, nhẫn, xâu chuỗi… Không phải vì giá trị vật chất, mà vì mỗi món đồ đều mang theo một phần ký ức của vai diễn.” Kỷ vật Thành Lộc thích nhất là đôi giày ba lê mũi cứng, trong vở Hoàng tử Gấu và Hạt đậu thần từ sân khấu Ngày xửa ngày xưa. “Khi đó, nhân vật của tôi, với toàn bộ quyền năng của mình, luôn di chuyển trên giày mũi cứng. Đó là cách tôi làm nhân vật tách biệt hoàn toàn với thế giới thường nhật.”. Còn Lôi Vũ – vở tốt nghiệp tại sân khấu kịch 5B, là lần đầu tiên Thành Lộc toàn quyền quyết định về phục trang, từ việc tự đi mua vải, chọn màu, phối chất liệu. Ba màu chủ đạo là xám, đen và trắng.
Trang phục có sức ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý diễn viên. Nhiều người không để ý điều đó. Có diễn viên còn lười hoá trang, để mặt mộc rồi bước thẳng ra sân khấu. Nhưng Thành Lộc thì khác. “Tôi rất thích cái cảm giác nhìn vào gương và thấy một người không phải mình. Khi gương mặt đã khác, bộ đồ mình khoác lên không giống với ngoài đời, lúc đó tôi mới thật sự nhập vai.” Thành Lộc từng hóa thân vào vai giáo sư đầu hói, tóc lưa thưa trong Lời nguyền huyết ngải. Chỉ cần thay phục trang, khoác lên bộ đồ của giáo sư, là dáng tự dưng khòm xuống, như thể bộ đồ ấy tự “kéo” mình vào nhân vật. “Nếu tôi đi thẳng lưng thì vẫn là Thành Lộc, phải khòm khòm mới đúng là ông giáo sư đó. Khi mặc vào rồi, mọi thứ mới thật sự trọn vẹn. Trong lúc diễn, mấy bạn diễn viên trẻ cứ gọi tôi là ‘thầy’ xưng ‘con’. Nhưng hễ cởi đồ diễn ra là lại gọi tôi ‘anh Lộc’ như cũ.”
Hình thức bên ngoài, từ gương mặt, bộ đồ đến mái tóc,… đều ảnh hưởng đến người diễn viên nhiều hơn họ tưởng. Thậm chí, còn quyết định cả cách họ nghĩ, cách đi đứng, cách được nhìn nhận. Và khi đó – nhập vai, trước hết là phải nhập hình.







